Hóa xạ trị đồng thời là gì? Các công bố khoa học về Hóa xạ trị đồng thời

Hóa xạ trị đồng thời là một phương pháp điều trị ung thư sử dụng kỹ thuật kết hợp của hóa trị và xạ trị. Phương pháp này thường được áp dụng khi cần cùng lúc ki...

Hóa xạ trị đồng thời là một phương pháp điều trị ung thư sử dụng kỹ thuật kết hợp của hóa trị và xạ trị. Phương pháp này thường được áp dụng khi cần cùng lúc kiểm soát và loại bỏ tế bào ung thư từ cả hai phương diện khác nhau. Hóa trị thường sử dụng các chất hoá học để tấn công và giết chết tế bào ung thư, trong khi xạ trị sử dụng tia X hoặc tia gamma để phá hủy tế bào ung thư. Kết hợp cả hai phương pháp có thể tăng hiệu quả điều trị và giảm khả năng tái phát của ung thư.
Hóa xạ trị đồng thời thường được sử dụng trong các trường hợp ung thư nặng, nơi mà việc sử dụng một phương pháp điều trị đơn lẻ có thể không đạt được kết quả mong muốn. Khi sử dụng phương pháp này, bác sĩ sẽ kết hợp chế độ hóa trị và xạ trị sao cho tốt nhất cho bệnh nhân.

Hóa trị: Hóa trị sử dụng các chất hoá học, được gọi là thuốc chống ung thư, để tấn công tế bào ung thư. Thuốc chống ung thư có thể được đưa vào cơ thể bằng cách uống, tiêm vào tĩnh mạch hoặc tiêm trực tiếp vào vùng tế bào ung thư. Thuốc này hoạt động bằng cách ngăn chặn sự phân chia và tăng trưởng của tế bào ung thư, gây tổn thương tế bào ung thư, hoặc kích hoạt cơ chế tự hủy của chúng.

Xạ trị: Xạ trị sử dụng tia X hoặc tia gamma để phá hủy tế bào ung thư. Tia X hoặc gamma được tạo ra từ máy phát xạ và được chỉnh sửa để tập trung vào vùng ung thư cụ thể. Tia này tấn công và phá hủy tế bào ung thư, làm cho chúng không thể phục hồi và phát triển.

Khi kết hợp cả hai phương pháp hóa trị và xạ trị, bác sĩ có thể sử dụng chúng đồng thời hoặc tuần tự. Điều này nhằm mục đích tăng hiệu quả điều trị bằng cách tấn công tế bào ung thư từ nhiều phương diện khác nhau. Việc kết hợp cả hai phương pháp có thể giúp giảm khả năng tái phát của ung thư, kiểm soát sự phát triển của bệnh và cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân.

Tuy nhiên, hóa xạ trị đồng thời cũng có thể gây ra nhiều tác dụng phụ và tác động lên các tế bào khỏe mạnh xung quanh vùng ung thư. Vì vậy, quyết định sử dụng phương pháp này phải được đánh giá kỹ càng và điều chỉnh cá nhân hóa cho từng bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hóa xạ trị đồng thời":

Kết quả về hình ảnh X-quang, lâm sàng và chức năng của điều trị bằng adalimumab (kháng thể đơn dòng kháng yếu tố hoại tử khối u) ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp hoạt động đang nhận điều trị đồng thời với methotrexate: Thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với giả dược kéo dài 52 tuần
Wiley - Tập 50 Số 5 - Trang 1400-1411 - 2004
Tóm tắtMục tiêuYếu tố hoại tử khối u (TNF) là một cytokine tiền viêm quan trọng liên quan đến viêm xương khớp và thoái hóa ma trận khớp trong bệnh viêm khớp dạng thấp (RA). Chúng tôi đã nghiên cứu khả năng của adalimumab, một kháng thể đơn dòng kháng TNF, về việc ức chế tiến triển tổn thương cấu trúc của khớp, giảm các dấu hiệu và triệu chứng, và cải thiện chức năng thể chất ở bệnh nhân RA đang điều trị đồng thời với methotrexate (MTX).Phương phápTrong thử nghiệm mù đôi, đối chứng với giả dược này diễn ra tại nhiều trung tâm kéo dài 52 tuần, 619 bệnh nhân RA hoạt động không đáp ứng đầy đủ với MTX đã được chọn ngẫu nhiên để dùng adalimumab 40 mg tiêm dưới da mỗi hai tuần một lần (n = 207), adalimumab 20 mg hàng tuần (n = 212), hoặc dùng giả dược (n = 200) cùng với MTX. Kết quả chính là tiến triển X-quang tại tuần 52 (điểm Sharp tổng thể theo phương pháp sửa đổi [TSS]), đáp ứng lâm sàng tại tuần 24 (cải thiện ít nhất 20% theo tiêu chí cốt lõi của American College of Rheumatology [ACR20]), và chức năng cơ thể tại tuần 52 (chỉ số khuyết tật của Bảng đánh giá sức khỏe [HAQ]).Kết quảVào tuần 52, có sự tiến triển X-quang ít hơn đáng kể theo đo lường bằng sự thay đổi trong TSS ở những bệnh nhân dùng adalimumab 40 mg hai tuần một lần (thay đổi trung bình ± SD 0.1 ± 4.8) hoặc 20 mg mỗi tuần (0.8 ± 4.9) so với nhóm giả dược (2.7 ± 6.8) (P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Ngoài ra, có sự thay đổi đáng kể trong thành phần của TSS. Tại tuần 24, 63% và 61% bệnh nhân trong nhóm adalimumab 40 mg hai tuần một lần và 20 mg mỗi tuần đã đạt đáp ứng ACR20, trong khi chỉ 30% bệnh nhân ở nhóm giả dược đạt được (P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Tại tuần 52, 59% và 55% nhóm adalimumab 40 mg hai tuần một lần và 20 mg mỗi tuần đã đạt đáp ứng ACR20, so với 24% nhóm giả dược (P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Tại tuần 52, chức năng cơ thể đo lường bằng HAQ cho thấy cải thiện đáng kể với adalimumab 40 mg hai tuần một lần và 20 mg mỗi tuần so với giả dược (thay đổi trung bình chỉ số HAQ là −0.59 và −0.61 so với −0.25; P ≤ 0.001 cho mỗi so sánh). Tổng cộng có 467 bệnh nhân (75.4%) hoàn tất 52 tuần điều trị. Adalimumab nhìn chung được dung nạp tốt. Các trường hợp ngừng điều trị xảy ra ở 22.0% bệnh nhân điều trị bằng adalimumab và 30.0% bệnh nhân điều trị bằng giả dược. Tỷ lệ biến cố nghiêm trọng và không nghiêm trọng tương tự nhau giữa nhóm adalimumab và giả dược, mặc dù tỷ lệ báo cáo nhiễm trùng nghiêm trọng cao hơn ở bệnh nhân nhận adalimumab (3.8%) so với giả dược (0.5%) (P ≤ 0.02), đặc biệt cao ở nhóm 40 mg hai tuần một lần.Kết luậnTrong thử nghiệm kéo dài 52 tuần này, adalimumab cho thấy hiệu quả hơn so với giả dược trong việc ức chế tiến triển tổn thương cấu trúc khớp, giảm các dấu hiệu và triệu chứng, và cải thiện chức năng cơ thể ở bệnh nhân RA hoạt động không đáp ứng đầy đủ với MTX.
#Yếu tố hoại tử khối u #viêm khớp dạng thấp #adalimumab #methotrexate #liệu pháp đồng thời #đối chứng với giả dược #kháng thể đơn dòng #tiến triển cấu trúc khớp #chức năng cơ thể #thử nghiệm ngẫu nhiên #X-quang #ACR20 #HAQ.
Hóa trị đồng thời với cisplatin/etoposide và xạ trị ngực sau đó phẫu thuật điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIA (N2) và IIIB: kết quả trưởng thành của nghiên cứu pha II của Southwest Oncology Group 8805.
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 13 Số 8 - Trang 1880-1892 - 1995
MỤC ĐÍCH Đánh giá tính khả thi của việc hóa trị và chiếu xạ đồng thời (chemoRT) tiếp theo là phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển tại chỗ trong một môi trường hợp tác nhóm, và ước lượng tỷ lệ đáp ứng, tỷ lệ cắt bỏ, các mẫu tái phát và tỷ lệ sống sót cho các nhóm giai đoạn IIIA(N2) so với IIIB. BỆNH NHÂN VÀ PHƯƠNG PHÁP Yêu cầu cần có bằng chứng sinh thiết của hạch N2 dương tính (IIIAN2) hoặc hạch N3 hoặc tổn thương chính T4 (IIIB). Tiến hành hai chu kỳ hóa trị với cisplatin và etoposide cùng với xạ trị ngực đồng thời đến 45 Gy. Việc cắt bỏ được tiến hành nếu có phản ứng hoặc bệnh ổn định xảy ra. Đưa ra thêm một liều hóa trị xạ trị nếu phát hiện bệnh không thể cắt bỏ hoặc có các bờ hoặc hạch dương tính. KẾT QUẢ Thời gian theo dõi trung bình cho 126 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn [75 giai đoạn IIIA(N2) và 51 IIIB] là 2.4 năm. Tỷ lệ đáp ứng đối với điều trị kiềm chế là 59%, và 29% ổn định. Khả năng cắt bỏ là 85% cho nhóm IIIA(N2) đủ điều kiện phẫu thuật và 80% cho nhóm IIIB. Độc tính cấp độ 4 có thể hồi phục đã xảy ra ở 13% số bệnh nhân. Có 13 ca tử vong liên quan đến điều trị (10%) và 19 trường hợp khác (15%) tử vong không liên quan đến độc tính hoặc khối u. Trong số 65 ca tái phát, 11% chỉ là tại chỗ khu vực và 61% chỉ là di căn xa. Có 26 trường hợp tái phát não, trong đó 19 trường hợp là nơi hoặc nguyên nhân duy nhất gây tử vong. Không có sự khác biệt về tỷ lệ sống sót (P = .81) giữa giai đoạn IIIA(N2) và giai đoạn IIIB (thời gian sống trung bình, 13 và 17 tháng; tỷ lệ sống sau 2 năm, 37% và 39%; tỷ lệ sống sau 3 năm, 27% và 24%). Dự đoán mạnh nhất về tỷ lệ sống lâu dài sau phẫu thuật ngực là không có khối u ở các hạch trung thất trong quá trình phẫu thuật (thời gian sống trung bình, 30 so với 10 tháng; tỷ lệ sống sau 3 năm, 44% so với 18%; P = .0005). KẾT LUẬN Phương pháp ba phương thức này khả thi trong nghiên cứu của Southwest Oncology Group (SWOG), với tỷ lệ sống sót 3 năm đầy khích lệ là 26%. Hiện nay đang được tiến hành một nghiên cứu liên nhóm để xác định liệu phẫu thuật có thêm vào nguy cơ hay lợi ích của hóa trị xạ trị.
#ung thư phổi #hóa trị #xạ trị #phẫu thuật #NSCLC #IIIA(N2) #IIIB #SWOG #cisplatin #etoposide #nghiên cứu pha II
Thử nghiệm giai đoạn III so sánh capecitabine cộng với cisplatin với capecitabine cộng với cisplatin kết hợp với Xạ trị Capecitabine đồng thời trong ung thư dạ dày đã được phẫu thuật hoàn toàn với nạo hạch D2: Thử nghiệm ARTIST
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 30 Số 3 - Trang 268-273 - 2012
Mục đích Nghiên cứu ARTIST (Điều trị hóa xạ trị bổ trợ trong ung thư dạ dày) là nghiên cứu đầu tiên mà theo chúng tôi biết đến để điều tra vai trò của hóa xạ trị bổ trợ hậu phẫu ở bệnh nhân mắc ung thư dạ dày đã được cắt bỏ hoàn toàn với nạo hạch D2. Nghiên cứu này được thiết kế để so sánh điều trị hậu phẫu bằng capecitabine cộng với cisplatin (XP) với XP cộng với Xạ trị capecitabine (XP/XRT/XP). Bệnh nhân và phương pháp Nhánh XP nhận sáu chu kỳ XP (capecitabine 2,000 mg/m2 mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 14 và cisplatin 60 mg/m2 vào ngày đầu tiên, lặp lại mỗi 3 tuần) hóa trị. Nhánh XP/XRT/XP nhận hai chu kỳ XP sau đó là XRT 45-Gy (capecitabine 1,650 mg/m2 mỗi ngày trong 5 tuần) và hai chu kỳ XP. Kết quả Trong số 458 bệnh nhân, 228 được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP và 230 vào nhánh XP/XRT/XP. Điều trị được hoàn thành như kế hoạch đối với 75,4% bệnh nhân (172 trong số 228) trong nhánh XP và 81,7% (188 trong số 230) trong nhánh XP/XRT/XP. Tổng thể, việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm kéo dài thời gian sống không bệnh (DFS; P = .0862). Tuy nhiên, trong nhóm bệnh nhân có di căn hạch bạch huyết tại thời điểm phẫu thuật (n = 396), bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP/XRT/XP có thời gian sống không bệnh vượt trội so với những người chỉ nhận XP (P = .0365), và ý nghĩa thống kê vẫn được giữ trong phân tích đa biến (ước tính tỷ lệ nguy cơ, 0.6865; 95% CI, 0.4735 đến 0.9952; P = .0471). Kết luận Việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật triệt căn và nạo hạch D2 trong ung thư dạ dày. Một thử nghiệm tiếp theo (ARTIST-II) trên bệnh nhân ung thư dạ dày dương tính với hạch bạch huyết đang được lên kế hoạch.
#Hóa xạ trị bổ trợ #ung thư dạ dày #cắt bỏ D2 #capecitabine #cisplatin #ARTIST #thử nghiệm lâm sàng
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HÓA XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI TRƯỚC PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TRỰC TRÀNG GIAI ĐOẠN II, III
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả hoá xạ trịđồng thời (HXTĐT) trước phẫu thuật (PT) trong điều trị (ĐT) ung thư trực tràng (UTTT) giai đoạn II, III đồng thời nhận xét một số tác dụng không mong muốn và độc tính của phương pháp ĐT này. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 48 bệnh nhân (BN) UTTT giai đoạn II, III được xạ trị liều 50,4 Gy kết hợp hóa chất Capecitabine liều 825mg/m2 x 2 lần/ngày vào các ngày xạ trị, phẫu thuật được thực hiện sau kết thúc HXTĐT 4-6 tuần. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ sau điều trị đạt 83,4%. Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật triệt căn trong đó 87,5% PT bảo tồn cơ thắt hậu môn. Đánh giá mô bệnh học của bệnh phẩm sau phẫu thuật: 25% đáp ứng hoàn toàn; 85,4% giảm giai đoạn u và 91,7% giảm giai đoạn hạch. Độc tính gặp chủ yếu ở độ 1: thiếu máu độ 1 là 39,6%, giảm số lượng bạch cầu hạt trung tính độ 1 là 6,3%. Các tác dụng không mong muốn khác hay gặp là viêm bàng quang độ 1 (20,8%) và viêm da do xạ trị độ 1 (37,5%). Không gặp độc tính độ 3,4. Kết luận: HXTĐT trước phẫu thuậtvới Capecitabine là phương pháp điều trị hiệu quả, an toàn và ít độc tính cho BN UTTT giai đoạn II, III.
#Hóa xạ trị #ung thư trực tràng #giai đoạn II #III
Đánh giá đáp ứng hoá xạ trị đồng thời ung thư vòm mũi họng tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng hoá xạ trị đồng thời ung thư vòm mũi họng tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương.  Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu có theo dõi trên 50 bệnh nhân ung thư vòm họng được hóa xạ trị đồng thời tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương. Thời gian điều trị từ năm 2019 đến năm 2022. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn chung là 92%; đáp ứng hoàn toàn tại u là 96%; đáp ứng hoàn toàn tại hạch là 95%. Các biến chứng cấp và mạn chủ yếu ở mức độ 2. Kết luận: Tỷ lệ đáp ứng chung điều trị hóa xạ trị ung thư vòm họng cao; tuy nhiên thời gian theo dõi chưa dài nên chưa đánh giá được tỷ lệ tái phát, di căn sau điều trị.
#Ung thư vòm họng #hóa xạ trị đồng thời
KẾT QUẢ XẠ TRỊ 3D-CRT VÀ VMAT TRONG HOÁ XẠ ĐỒNG THỜI UNG THƯ THỰC QUẢN TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả xạ trị bằng kỹ thuật 3D-CRT và VMAT ở bệnh nhân hoá xạ đồng thời ung thư thực quản tại bệnh viện K. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 60 bệnh nhân điều trị hoá xạ đồng thời ung thư thực quản bằng kỹ thuật 3D-CRT và VMAT tại bệnh viện K từ tháng 5/2018 đến tháng 5/2021. Kết quả: Tuổi trung bình 54,4 ±7,0 (43-69). Tỷ lệ nam/nữ là 59/1. Tỷ lệ nuốt nghẹn 91,7%. Có 46 (76,7%) bệnh nhân giai đoạn T3, 14 (23,3%) bệnh nhân ở giai đoạn T4. Thể giải phẫu bệnh của các bệnh nhân là ung thư biểu mô vảy (100%). Các thông số bao phủ liều đến PTV (thể tích xạ kế hoạch – Planning target volume) của xạ trị VMAT so với 3D-CRT: V95: 98,4% - 94,35%, V110: 0,15% – 5,35%. Dmax tại tuỷ và da VMAT thấp hơn so với 3D-CRT. Liều tại phổi (V5,V20) và tại tim (V40) VMAT thấp hơn so với 3D-CRT.Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ sau hóa xạ trị là 48,3%, tỷ lệ đáp ứng 1 phần là 41,7%, tỷ lệ bệnh không đổi là 10%. Độc tính trên hệ huyết học là hạ bạch cầu (6%), hạ tiểu cầu (1,7%). Độc tính viêm da do xạ trị (58,4%), viêm thực quản do xạ trị (18,3%), độc tính viêm phổi do xạ trị (3,3%), không ghi nhận độc tính trên hệ tim mạch. Kết luận: Xạ trị ung thư thực quản bằng kỹ thuật VMAT và 3D-CRT cho kết quả tốt và an toàn, kỹ thuật VMAT cho thấy tập trung liều xạ tốt hơn và ít độc tính hơn kỹ thuật 3D-CRT.
#ung thư thực quản #hóa xạ trị đồng thời #kỹ thuật 3D-CRT #kỹ thuật VMAT
XÂY DỰNG QUY TRÌNH ĐỊNH LƯỢNG ĐỒNG THỜI 9 CHẤT TỒN DƯ BẢO VỆ THỰC VẬT TRONG MỘT SỐ LOẠI RAU QUẢ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Trong nghiên cứu này chúng tôi đã xây dựng quy trình định lượng đồng thời 9 chất tồn dư bảo vệ thực vật trong một số loại rau quả như Difenoconazole, Hexaconazole, Emamectin benzoate, Indoxacard, Acetamiprid, Carbaryl, Ethoprophos, Dimethoat, Carbosulfan bằng phương pháp khối phổ (Mass Spectrometry-MS), tiến hành phân tích trên máy LC - MS/MS. Điều kiện trên LC gồm cột sắc ký: tốc độ dòng 0.1 mL/phút, thể tích tiêm 10 µL. Điều kiện trên MS/MS gồm Ion mode ESI (+), điện thế mao quản 2.5 kV, source Temp 1500C, desolvation temperature 3000C, desolvation gas flow 0.25 mL/min, cone gas flow OFF
#Difenoconazole #Hexaconazole #Emamectin benzoate #Indoxacard #Acetamiprid #Carbaryl #Ethoprophos #Dimethoat #Carbosulfan LC/MS/MS rau quả
Kết quả sống thêm ung thư lưỡi giai đoạn T1-2N1M0 bằng phẫu thuật kết hợp hoá xạ trị đồng thời tại Bệnh viện K
Mục tiêu đánh giá kết quả sống thêm và phân tích một số yếu tố tiên lượng trên bệnh nhân ung thư lưỡi giai đoạn T1-2N1M0 bằng phẫu thuật kết hợp hoá xạ trị đồng thời tại bệnh viện K. Phương pháp nghiên cứu hồi cứu kết hợp tiến cứu 52 BN ung thư lưỡi giai đoạn T1-2N1M0 được chẩn đoán và điều trị tại bệnh viện K từ 2015 đến 2019. Kết quả cho thấy có 25% tái phát sau điều trị và thường gặp tái phát tại hạch cổ (61,5%), tiếp đến là tại lưỡi (15,4%). Độ mô học, độ sâu xâm nhập và di căn hạch liên quan đến tỷ lệ tái phát sau điều trị (p < 0,05). Tỷ lệ DFS và OS 5 năm lần lượt là 68,3% và 74,7%, thời gian DFS và OS trung bình: 43,9 tháng và 48,6 tháng. Di căn hạch, độ mô học cao và xâm lấn sâu u > 5 mm ảnh hưởng đến thời gian sống thêm không bệnh và sống thêm toàn bộ, có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
#Ung thư lưỡi #T1-2N1M0 #kết quả sống thêm
KẾT QUẢ HÓA XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI PHÁC ĐỒ CISPLATIN – 5-FLUOROURACIL UNG THƯ BIỂU MÔ THỰC QUẢN GIAI ĐOẠN II, III TẠI BỆNH VIỆN K
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng điều trị triệt căn ung thư biểu mô thực quản giai đoạn II, III bằng hóa xạ trị đồng thời (HXĐT) phác đồ CISPLATIN – 5-FLUOROURACIL và nhận xét một số tác dụng không mong muốn của phác đồ điều trị. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên 40 bệnh nhân UTTQ giai đoạn II, III được điều trị triệt căn HXĐT với hóa chất phác đồ CISPLATIN – 5-FLUOROURACIL tại Bệnh viện K từ 01/2020 - 08/2022. Kết quả: Kết quả điều trị: Toàn bộ bệnh nhân hoàn thành 2 chu kỳ HXĐT đầu tiên và 2 chu kỳ CF bổ trợ tiếp theo. Đánh giá trên CT ngực theo RECIST cho thấy, tỷ lệ đáp ứng sau 4 chu kỳ điều trị đạt 67.5%, trong đó đáp ứng hoàn toàn chiếm 37.5%, đáp ứng một phần chiếm 30.0%. Sau 4 chu kỳ điều trị có 2 bệnh nhân tiến triển (5.0%). Độc tính: chủ yếu là độc tính độ I, II, độc tính độ III chiếm tỷ lệ nhỏ, không có độc tính độ IV. Độc tính trên hệ tiêu hóa chủ yếu là nôn và tiêu chảy. Hầu hết bệnh nhân bệnh nhân có bỏng da do tia xạ (90.0%) và viêm thực quản (60.0%) trong quá trình điều trị.
#UTTQ #hóa xạ trị đồng thời #CISPLATIN – 5-FLUOROURACIL #tỷ lệ đáp ứng #độc tính
Tổng số: 47   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5